Sau khi thực dân Pháp tấn công vào Kinh Thành Huế vào tháng 7 năm 1885, kế đến là sự cáo chung của triều Nguyễn do thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhiều cổ vật quý báu của vương triều này đã bị thất thoát ra nước ngoài vì nhiều lý do và bằng nhiều con đường khác nhau. Trong khi các bảo tàng và các sưu tập tư nhân ở Việt Nam hiếm có cơ hội để lưu giữ, trưng bày các bảo vật của vương triều Nguyễn, nhất là các món vàng bạc châu báu, thì nhiều bảo tàng và các sưu tập tư nhân ở ngoại quốc đang sở hữu những cổ vật này. Những năm gần đây, bảo vật triều Nguyễn được mua bán công khai trong các phiên đấu giá cổ vật ở London, Paris, New York… hay được rao bán trên các trang web thương mại như eBay hay Spin. Đây quả là điều đáng buồn cho những ai quan tâm và yêu quí cổ vật Việt Nam nói chung và bảo vật của triều Nguyễn nói riêng.
Thời Nguyễn (1802 – 1945), kim vật (vật bằng vàng) của các triều vua: Minh Mạng (1820 – 1841), Thiệu Trị (1841 – 1847) và Tự Đức (1848 – 1883) luôn được coi trọng bởi giá trị lịch sử, nghệ thuật, cũng như bởi kích thước và trọng lượng của chúng. Kim vật triều Nguyễn có thể phân thành ba nhóm: vật thờ cúng (nén vàng để thờ, lọ hoa thờ, đồ dâng rượu cúng…); vật biểu thị cho quyền lực của vương triều (kim bảo, kim sách) và đồ ngự dụng (đồ dành cho vua dùng như: khay, mâm, bình rượu, cơi trầu, ống nhổ, chậu rửa mặt…). Kim vật của triều Nguyễn hiện còn rất ít tại Việt Nam do bị mất mát, thất lạc hoặc bị cướp bóc trong các cuộc chiến tranh trước đây.
Sau khi ký hòa ước Nhâm Tuất (1862) với thực dân Pháp, vua Tự Đức phải thu gom gần như toàn bộ vàng thoi, bạc nén trong quốc khố để bồi thường chiến phí cho liên quân Pháp và Tây Ban Nha. Khi số vàng này được chuyển về Pháp, chính phủ Pháp cho chọn mỗi loại một món đưa vào bảo quản trong các bảo tàng quốc gia để làm kỷ vật. Nhờ vậy nên tại các bảo tàng Pháp quốc như Hotel de la Monnaie (Paris) vẫn còn giữ được những nén vàng của triều Nguyễn, trong đó, có một nén vàng nặng 3,8 kg từ đời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765).
Do quốc khố không có đủ vàng thoi để bồi thường chiến phí nên vua Tự Đức phải thu hồi một số bảo vật bằng vàng và bằng bạc đang trưng bày trong các cung điện, đúc thành thoi vàng và nén bạc trả để trả cho người Pháp và người Tây Ban Nha. Năm 1869, vua ra lệnh cho các hoàng thân, hoàng tử, công chúa… nộp lại kim ấn và kim sách mà triều đình đã ban cho họ trước đây, đúc thành 135 đĩnh vàng để triều đình tiêu dùng. Sau đó, vua Tự Đức đã cải cấp (cấp lại) cho họ những kim ấn và kim sách làm bằng đồng.
Ngày 5/7/1885, quân Pháp đánh chiếm Kinh Thành Huế, vua Hàm Nghi và hoàng gia xuất bôn ra Quảng Trị, rồi ra Hà Tĩnh, đem theo một số vàng bạc, châu báu để tiêu dùng. Trong lúc ấy, quân Pháp tràn vào cướp bóc tất cả đồ đạc quý giá đang trưng bày và thờ tự trong các cung điện ở trong Đại Nội. Theo ghi chép của linh mục Siefert, người đã có mặt tại Huế lúc bấy giờ, khi đối chiếu với bảng kiểm kê tài sản của hoàng gia lập trước ngày 5/7/1885 với những gì đã mất, thì quân Pháp đã cướp “228 viên kim cương, 266 món nữ trang có nạm kim cương, hại trai, hạt ngọc, 271 đồ bằng vàng trong cung của bà Từ Dũ… Tại các tôn miếu thờ các vua: Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị thì hầu hết các thứ có thể mang đi như mũ miện, đai áo, thảm đệm, triều phục, long sàng và bàn xoay có chạm trổ, các giá treo vũ khí, hộp đựng trầu để thờ, ống nhổ, chậu quán tẩy bằng vàng; hỏa lò, mùng và màn thêu hoa, đỉnh trầm, ấm trà và khay chén, tăm xỉa răng… đều bị cướp”.[1] Phần lớn những bảo vật cướp bóc trong đợt này đã được người Pháp chuyển về Paris.
Sau khi vua Đồng Khánh lên ngôi (tháng 9/1885), người Pháp đã trả lại cho triều đình nhà Nguyễn một số kim bảo, ngọc tỷ và kim sách. Sau đó, triều đình cho chuyển những bảo vật còn lại về thờ tự và cất giữ trong điện Phụng Tiên. Trong số đó có một cuốn kim sách khắc bài Tự chế mạng danh thi của vua Minh Mạng và một nén vàng lớn, gồm hai nửa, nặng gần 2 kg, trên đó có khắc dòng chữ Hán: Thế tổ đế hậu, Quý Mão bá thiên thời tín vật. Đây là nén vàng mà Nguyễn Ánh đã chặt làm đôi, rồi ông và bà Tống Thị Lan, vợ cả của ông mỗi người giữ một nửa, để làm tín vật, trước khi ông trốn ra đảo Phú Quốc vì bị quân Tây Sơn truy đuổi.
Thời Duy Tân (1907 – 1916), triều đình lại chuyển các bảo vật này về cất giữ trong điện Cần Chánh tọa lạc bên trong Tử Cấm Thành. Ngoài kim bảo, ngọc tỷ, kim sách, ngân sách của vua, hoàng phi, hoàng tử và công chúa, còn có một hổ phù bằng vàng, gồm hai nửa, gọi là phủ tín. Khi vua xuất cung thường phải mang theo nửa mảnh hổ phù này. Đến lúc trở về, vua phải đưa nửa mảnh hổ phù này cho lính canh để ráp với nửa còn lại, nếu thấy khớp với nhau thì nhà vua mới được nhập cung. Tuy nhiên, trong lần kiểm kê tài sản trong điện Cần Chánh do ông Paul Boudet thực hiện vào năm 1942, thì không thấy kê tên hổ phù bằng vàng này. Có thể nó đã bị thất lạc. Cuộc kiểm kê này còn cho biết: vào lúc bấy giờ trong điện Cần Chánh còn lưu giữ 46 kim ấn và ngọc tỉ, 26 kim sách, trong đó có 3 kim sách khắc các bài Thánh chế mạng danh kim sách và nhiều kim sách khác đề niên hiệu các vua: Gia Long, Thiệu Trị, Tự Đức, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân và Khải Định. Ngoài ra, còn có một số sách phong bằng bạc mạ vàng do triều đình tấn phong cho các hoàng thái hậu và thái tử. Tất cả những bảo vật này đã biến mất sau ngày nhà Nguyễn cáo chung.
Sau nhiều thập kỷ “im hơi lặng tiếng”, hiện nay nhiều bảo vật triều Nguyễn lại xuất hiện khá nhiều trong các bảo tàng và trong các cuộc bán đấu giá ở châu Âu. Bài viết này giới thiệu một số bảo vật bằng vàng của triều Nguyễn mà chúng tôi đã diện kiến hoặc có được thông tin và hình ảnh từ những hành trình theo dấu cổ vật Việt Nam ở hải ngoại mà chúng tôi đã theo đuổi trong nhiều năm qua:
– Hiện vật thứ nhất là thanh kiếm, được cho là của vua Gia Long, hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Quân đội (Musée de l’Armée) thuộc Điện Phế binh Quốc gia (Hôtel National des Invalides) ở Paris. Thanh kiếm gồm có hai phần: phần lưỡi dài khoảng một thước và phần chuôi ngắn bằng một phần năm lưỡi kiếm. Đầu chuôi kiếm tạo hình một đầu rồng (hay đầu con giao) làm bằng vàng có chạm trổ rất tinh xảo. Đầu rồng này nối với đốc kiếm làm bằng một dãy gồm bảy vòng ngọc thạch giống bảy đốt tre dính liền với nhau, thông qua những gờ nỗi bằng vàng và cuối cùng là một chiếc vòng vàng nằm giữa bốn chuỗi san hô và trân châu. Miệng rồng ngậm một băng mạ vàng, uốn hình vòng cung nối với bốn chuỗi san hô và trân châu ở cuối đốc kiếm, tạo thành cánh của đốc kiếm. Phía cuối cánh đốc kiếm có chạm trổ hình những chiếc lá bằng vàng và nạm những hạt kim cương. Lưỡi kiếm hơi uốn cong, làm bằng thép sáng ngời. Trên lưỡi kiếm, sát với phần đốc kiếm có khảm ba chữ 太阿劍 (Thái A kiếm) bằng vàng, là tên của thanh kiếm. Theo nhà nghiên cứu Dominique Rolland, đây là thanh kiếm bảo kiếm của vua Gia Long, vốn được trưng bày trong Đại Nội Huế, nhưng đã bị người Pháp cướp đi trong sự kiện Kinh đô thất thủ vào tháng 7/1885.[2]
– Hiện vật thứ hai là chiếc chậu quán tẩy làm bằng vàng được đưa ra trưng bày trong cuộc triển lãm của nhà buôn bán đồ cổ Roger Keverne (London) vào mùa đông năm 2008. Đây là chậu dùng để cho vua rửa tay trước khi cử hành những đại lễ trong tông miếu triều Nguyễn. Chậu có đường kính 31,7 cm. Vành trên miệng chậu có khắc dòng lạc khoản gồm 18 chữ Hán: 八五歲金三十五兩六咫八分匠作匠四奉造 (Bát ngũ tuế kim, tam thập ngũ lượng lục chỉ bát phân, tượng tác tượng tứ phụng tạo: làm bằng vàng 8,5 tuổi, nặng 35 lượng 6 chỉ 8 phân, do thợ ở đội 4 trong tượng cục vâng mệnh làm ra). Trong lòng khắc hình rồng 5 món cuộn tròn (đoàn long), mặt trời và mây. Vành miệng khắc chìm bốn đồ án long vân xen kẽ các dãi hồi văn hình hoa thị. Đường nét chạm trổ trên chậu rất tinh xảo, diệu nghệ, càng làm tăng giá trị của bảo vật. Theo ghi chép trong catalogue, chậu quán tẩy này có xuất xứ từ Hoàng cung Huế vào năm 1887, trước khi được bán cho ông Ralph Marty vào năm 1926. Theo khảo cứu của chúng tôi, thực ra, chiếc chậu bằng vàng này đã bị quân Pháp cướp khi họ tràn vào Đại Nội trong ngày 5/7/1885. Căn cứ vào ghi chép của linh mục Siefert thì có thể đây là một trong các bảo vật bị người Pháp lấy đi từ miếu nơi thờ các vua nhà Nguyễn trong Đại Nội Huế.
– Hiện vật thứ ba là một sách phong bằng bạc mạ vàng, trước đây thuộc sưu tập của ông Hồ Đình Xuân ở Pháp, được đưa ra bán đấu giá ở Paris vào ngày 12/12/1996 với giá 9.500 francs. Đây là sách phong do vua Thiệu Trị tấn phong cho vợ là bà Vũ Thị Viên, từ hạng Lương tần lên hạng Lương phi vào năm Thiệu Trị thứ 6 (1846). Sách gồm 5 tờ 10 trang, kích thước 23 cm x 14 cm. Theo sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ do Nội Các triều Nguyễn biên soạn, thì sách phong cho các phi được làm bằng bạc mạ vàng, dài 5 tấc 4 phân (21,60 cm), rộng 3 tấc 2 phân 4 ly (12,96 cm), với hai tờ bìa khắc hình rồng mây, bên trong có 3 tờ sách khắc sách văn. Như thế, sách phong cho Lương phi Vũ Thị Viên có kích thước lớn hơn. Đây là một điều khá đặc biệt.
Nguyên văn:
維紹治陸年歲次丙午正月丁巳朔越貳拾日丙子
承天興運
皇帝若曰
朕惟
王化所先正始係儀型之準
邦家有慶自內隆恩格之施
穀旦載蠲溫綸誕播
睠惟
良嬪武氏
勳賢令閥
淑慎貞資
端莊懋迪芳徽內治贊肅雍之化
虔恪彌敦懿行上事嫻婉順之儀
怡愉上慰慈顏
嘉美疊承榮命
值朕初登壽衮施恩曾普施寰瀛
肆今仰體鴻慈序德宜隆于章衮
式稽彝典
用侈殊褒
茲特晉封爾為良妃
妃期
祇 奉榮光
凜遵成訓
柔儀有穆恪循矩範以無違
福祉方來上藉廕庥于弗替
欽哉
Phiên âm
Duy Thiệu Trị lục niên tuế thứ Bính Ngọ, chính nguyệt, Đinh Tị sóc việt nhị thập nhật Bính Tí
Thừa thiên hưng vận
Hoàng đế nhược viết
Trẫm duy
Vương hóa sở tiên, chính thủy hệ nghi hình chi chuẩn
Bang gia hữu khánh, tự nội long ân cách chi thi
Cốc đán tải quyên, ôn luân đản bá
Quyến duy
Lương tần Vũ thị
Huân hiển lệnh phiệt
Thục thận trinh tư
Đoan trang mậu địch phương huy, nội trị tán túc ung chi hóa
Kiền khác di đôn ý hạnh, thượng sự nhàn uyển thuận chi nghi
Di du thượng úy Từ nhan
Gia mỹ điệp thừa vinh mệnh
Trị Trẫm sơ đăng thọ cổn, thi ân tằng phổ thí hoàn doanh
Tư kim ngưỡng thể hồng từ, tự đức nghi long vu chương cổn
Thức kê di điển
Dụng xỉ thù bao
Tư đặc tấn phong nhĩ vi Lương phi
Phi kỳ
Chỉ phụng vinh quang
Lẫm tuân thành huấn
Nhu nghi hữu mục khác tuần củ phạm dĩ vô vi
Phúc chỉ phương lai thượng tịch ấm hưu vu phất thế
Dịch nghĩa
Vào niên hiệu Thiệu Trị thứ 6, năm Bính ngọ, tháng Giêng, đã vượt ngày sóc (mồng 1) Đinh tị được 20 ngày, là ngày Bính tí
Thừa thiên hưng vận
Hoàng đế ban rằng
Trẫm nghĩ
Vương gia giáo hóa ưu tiên lấy biểu nghi làm chuẩn mực
Khánh lễ quốc gia, theo phép ra ân lớn tự bên trong.
Chọn được ngày lành
Ban ra ân chiếu
Đoái nghĩ Lương tần họ Vũ
Con nhà danh giá công lao
Tư cách đằm thắm thận trọng
Đoan trang tốt đẹp hết sức trợ giúp cung cấm, dạy bảo thuận hòa
Cung kính nết hạnh, dốc lòng phụng thờ bề trên, dịu dàng khuôn phép
Vui vẻ chiều ý Đức Từ[3]
Khéo khôn nhận đầy sủng mệnh.
Đúng dịp Trẫm mới lên tuổi thọ[4], nên ân ban khắp chốn đất trời
Nay đang cậy đức lớn Đức Từ, cần lớn lao để thêm long trọng
Dựa theo phép tắc
Để ngợi khen riêng
Nay đặc biệt tấn phong ngươi là Lương phi
Phi hãy
Cung nhận tiếng khen
Kính tuân giáo huấn
Thuận kính đúng theo khuôn mẫu, không có điều lầm lẫn
Phúc lành mới được nương nhờ, còn mãi chở che
Kính thay! [5]
Theo sách Nguyễn Phúc tộc thế phả, Lương phi Vũ Thị Viên là vợ thứ của vua Thiệu Trị và con gái của Phó vệ úy Vũ Hữu Lĩnh, người huyện Hương Trà (tỉnh Thừa Thiên). Bà sinh ra bốn hoàng tử: Nguyễn Phúc Hồng Hưu (Gia Hưng vương), Nguyễn Phúc Hồng Kiện (An Phúc quận vương), Nguyễn Phúc Hồng Bàng, Nguyễn Phúc Hồng Thụ, và hai hoàng nữ: Nguyễn Phúc Ý Phương (Đồng Phú công chúa), Nguyễn Phúc Minh Tư. Cho đến nay, sách phong Lương phi Vũ Thị Viên là sách phong duy nhất bằng bạc mạ vàng vẫn còn tồn tại, vì ở Việt Nam và hải ngoại, người ta chỉ còn trông thấy một số đồng sách và thể sách (sách lụa) mà thôi, chủ yếu mang niên hiệu từ đời Tự Đức trở về sau. [6]
– Hiện vật thứ tư là trấn phong kích thước 20 cm x 19 cm, trước đây thuộc sưu tập của hoàng thái tử Bảo Long, được đưa ra bán đấu giá ở London vào năm 2008. Trấn phong làm bằng vàng, nặng 11,9 lượng. Phần trên trấn phong chạm lộng đồ án lưỡng long triều nhật (hai rồng chầu mặt trời); phần dưới chạm lộng đồ án long hàm thọ (rồng ngậm chữ Thọ); còn hai trụ ở hai bên trấn phong thì chạm hình rồng đoanh, đặt trên thân hai con kỳ lân làm bằng bạc, nặng 2,2 lượng. Thân của trấn phong khắc dòng chữ Hán: 萬壽四旬大慶節 (Vạn thọ tứ tuần đại khánh tiết), nổi trên nền hồi văn chữ Vạn liên hoàn. Trấn phong này là món quà của dân chúng An Nam mừng thọ vua Khải Định nhân dịp sinh nhật lần thứ 40 của vua (1924).
– Hiện vật thứ năm cũng là một tấm trấn phong, nhưng gồm bốn tấm vàng liên kết với nhau, có tổng chiều dài là 57,50 cm, cân nặng 1,66 kg. Mặt trước trấn phong chạm nổi hình bản đồ Việt Nam (tấm thứ 1), cảnh chùa Thiên Mụ (tấm thứ 2), cảnh Phu Văn Lâu và Kỳ Đài Huế (tấm thứ 3); đồ án rồng mây và văn thủy ba (tấm thứ 4). Mặt sau trấn phong khắc những dòng chữ Hán, cho biết, đây là quà tặng của dân chúng An Nam cho hoàng thái tử Vĩnh Thụy vào năm 1923. Nội dung văn tự trên mặt sau trấn phong tạm dịch như sau: “Kính mong hoàng thái tử sức khỏe dồi dào, học hành thành đạt ở nơi trời Tây, sau này về nước kế vị vua cha, cai trị đất nước, xây dựng một đất nước Việt Nam tự do, thống nhất từ Bắc đến Nam, có sức mạnh và bình đẳng với các quốc gia khác trên thế giới. Đồng thời dân chúng cũng cầu chúc Hoàng đế Khải Định, Hoàng thái tử Vĩnh Thụy trường thọ, chúc triều Nguyễn trường tồn”.[7] Trấn phong này thuộc bộ sưu tập của Cựu hoàng Bảo Đại, nhưng vừa được đưa ra bán đấu giá ở London vào năm 2008.
Cuối cùng là những chiếc kim bài và kim khánh vừa được eBay rao bán đấu giá trên mạng internet cách nay vài tháng. Các kim bài, kim khánh, ngọc khánh… này vốn là những vật tùy thân, cũng là các món trang sức của các bậc đế vương và thành viên trong hoàng gia. Đồng thời đó cũng là những vật thể hiện địa vị và đẳng cấp của người sở hữu chúng. Ngoài ra, các vua triều Nguyễn còn dùng kim bài, kim khánh, ngọc khánh làm vật phong tặng, quà kỷ niệm hay để ân thưởng cho quý tộc và quan lại cao cấp trong những dịp đặc biệt.
Kim bài của vua Khải Định, làm bằng vàng, chính giữa khắc bốn chữ Hán Đại bang duy bình, xung quanh có gắn 10 viên hồng ngọc và các đường viền chạm hình lưỡng long. Kim khánh cũng làm bằng vàng, hai mặt đều chạm hình lưỡng long triều nhật, bao quanh các chữ Hán: 啟定恩賜 (Khải Định ân tứ) (mặt trước) và 報義酬勳 (Báo nghĩa thù huân) (mặt sau). Phía dưới kim khánh là hình vân khánh nối với những dải tua, tất cả đều được kết bằng những hạt cườm ngũ sắc. Kim khánh này được đặt trong một chiếc hộp bằng bạc, có khắc hoa văn lưỡng long triều nhật bao quanh một ô hình trái xoan ở giữa, có khắc bốn chữ Hán: 啟定年造 (Khải Định niên tạo) kèm theo chữ ký của nghệ nhân ở phía dưới, bên trái. Cuối cùng là một chiếc kim khánh hạng hai, cũng làm bằng vàng, có khắc ba chữ Hán: 安靜公 (An Tĩnh công). Cách nay một tháng, kim khánh 安靜公 (An Tĩnh công) này đã được bán với giá €1919. Tất cả những kim khánh và ngọc khánh này đều thuộc quyền sở hữu của nhà sưu tập Andrè Hüsken ở Hamburg (Đức). Ngoài ra, trong sưu tập huy chương của đại sứ Ý Antonio Benedetto Spada, hiện đang trưng bày tại bảo tàng Légion d’Honneur (Paris), cũng có trưng bày 8 kim bài, 6 ngân bài cùng nhiều kim khánh, ngân khánh, kim bội và kim tiền.
Tất cả đều là bảo vật truyền gia của vương triều Nguyễn, nhưng nay đang lưu lạc nơi đất khách quê người. Thật là đáng tiếc lắm thay.
Tháng Năm năm 2011
Trần Đức Anh Sơn – Philippe Truong
[1] J. Chesneaux, Contribution à l’histoire de la nation vietnamienne, Paris, Éditions Sociales, 1955, p. 134.
[2] Dominique Rolland, “Le sabre de l’Empereur Gia Long”, Bulletin de la Nouvelle Association des Amis du Vieux Hué, 9/2005, pp. 3-17.
[3] Chỉ Thuận Thiên Cao hoàng hậu.
[4] Lúc này vua Thiệu Trị đúng 40 tuổi, nên mới dùng sơ thọ.
[5] Tác giả bài viết chân thành cám ơn nhà nghiên cứu Vĩnh Cao đã phiên âm và dịch nghĩa sách văn này.
[6] Được biết cách đây vài năm, một nhà buôn cổ vật ở Thành phố Hồ Chí Minh đã mua được sách phong này và đã chuyển về bảo quản ở Việt Nam.
[7] Nội dung văn bản này được dịch dựa trên chú thích bằng tiếng Anh in kèm hiện vật, vì các tác giả bài viết không có điều kiện tiếp cận với nguyên văn chữ Hán khắc trên mặt sau trấn phong này.
Leave a Reply
Your email is safe with us.